Tên nước: Liên bang Mi-an-ma (UNI0N of Myanmar). Trước kia tên gọi là Miến Điện, năm 1989, giới cầm quyền quân sự Mi-an-ma đổi tên nước thành Liên bang Mi-an-ma.
I. KHÁI QUÁT CHUNG:
– Tên nước: Liên bang Mi-an-ma (UNI0N of Myanmar). Trước kia tên gọi là Miến Điện, năm 1989, giới cầm quyền quân sự Mi-an-ma đổi tên nước thành Liên bang Mi-an-ma.
– Thủ đô: Nây-pi-tô (Nay Pyi Taw, là thủ đô hành chính, từ tháng 1/2006), trước đó là Y-ăng-gun (Yangon).
– Vị trí địa lý: Mi-an-ma nằm ở Đông Nam Á, có tọa độ từ 09 độ 32 phút đến 28 độ 31 phút vĩ Bắc và 92 độ 15 phút đến 101 độ 11 phút kinh Đông. Có biên giới chung với Trung Quốc (2.185 Km), Lào (235 Km), Thái Lan (1.800 Km), Ấn Độ (1.463 Km), Băng-la-đét (193 Km) và bờ biển dài 2.276 Km (gồm biển Andaman và Vịnh Bengal);
– Diện tích: 676.577 Km2;
– Dân số: 56.000.000 triệu
– Dân tộc: Gồm 135 dân tộc và bộ tộc, đông nhất là người Miến Điện (Burma) chiếm 68%, người Shan chiếm 9%, người Karen chiếm 7%, người Rakhine chiếm 4%, người Hoa chiếm 3%, người Ấn chiếm 2%, người Mon chiếm 2% và các dân tộc khác chiếm 5%;
– Tôn giáo: Đạo Phật (chiếm 89%), Hồi giáo (4%), Thiên chúa giáo (4%) và các tôn giáo khác.
– Ngôn ngữ: Tiếng Miến Điện (Burmese)
– Ngày độc lập (Quốc khánh): 4 tháng 1 năm 1948.
– Ngày thiết lập quan hệ Ngoại giao với Việt Nam: 28/5/1975.
– Lãnh đạo nhà nước hiện nay:
• Nguyên thủ quốc gia: Thống tướng Than Xuề (Senior General Than Shwe) Chủ tịch Hội đồng Hoà bình và Phát triển Quốc gia (SPDC) (cầm quyền ngày 23/4/1992).
• Thủ tướng: Đại tướng Thên Sên (Thein Sein) (nhậm chức ngày 24/10/2007)
• Ngoại trưởng: Thiếu tướng Ni-an Uyn (Nyan Win).
II. LỊCH SỬ:
1. Thời kỳ thực dân:
– Tháng 1/1824, Anh bắt đầu xâm nhập Mi-an-ma và sau 3 lần tiến hành chiến tranh (1824, 1825 và 1885), Anh đã thôn tính hoàn toàn Mi-an-ma vào năm 1886 sau 62 năm.
– Trong Đại chiến Thế giới lần thứ II, phát xít Nhật chiếm đóng Mi-an-ma.
– 17/5/1945, Anh với danh nghĩa quân đồng minh quay trở lại thống trị Mi-an-ma.
– Ngày 4/1/1948, Anh trao trả độc lập hoàn toàn cho Mi-an-ma.
2.Thời kỳ sau độc lập:
– Từ khi giành được độc lập (1948) đến năm 1962, Mi-an-ma là nhà nước Liên bang theo chế độ dân chủ đại nghị. Tháng 3/1962, Đại tướng Ne Win làm đảo chính quân sự, thành lập Hội đồng Cách mạng, tuyên bố xóa bỏ Hiến pháp, giải tán Quốc hội và các tổ chức đảng phái chính trị, quốc hữu hoá toàn bộ các cơ sở kinh tế, ngân hàng…Chính sách đóng cửa trong 26 năm cầm quyền của Đảng Cương lĩnh Xã hội chủ nghĩa Miến Điện do tướng Ne Win đứng đầu, đã đưa đất nước rơi và tình trạng khủng hoảng, đặc biệt là các cuộc buổi tình của lực lượng sinh viên.
– Cuộc khủng hoảng chính trị năm 1988 đã dẫn đến cuộc đảo chính quân sự ngày 18/9/1988 do Đại tướng Saw Maung cầm đầu, thành lập Hội đồng Khôi phục Trật tự và Pháp luật Quốc gia (SLORC), giải tán Quốc hội và tuyên bố sẽ tổ chức Tổng tuyển cử vào năm 1990.
– Ngày 27/5/1990, Tổng tuyển cử đa đảng được tiến hành. Kết quả, Liên minh Dân tộc Dân chủ (NLD) do bà Ong San Su Chi đứng đầu, giành được 396 trong tổng số 485 ghế Quốc hội (chiếm 82%). Tuy nhiên, Chính quyền đã không chuyển giao quyền lực cho NLD với lý do cho rằng Quốc hội được bầu chỉ có một nhiệm vụ duy nhất là soạn thảo Hiến pháp mới.
– Cuối những năm 1990, lãnh tụ đối lập Bà Ong San Su Chi (Aung San Suu Kyi) đã khuấy lên phong trào chống Chính phủ cả trong lẫn ngoài nước. Chính quyền Mianma quản thúc Bà tại gia từ năm 1989. Vào cuối năm 2009, quan hệ giữa bà ASSK và Chính quyền đã được cải thiện; hai bên tăng cường đối thoại.
– Tháng 4/1992, Thống tướng Than Xuề lên thay Tướng Sô Mong (về hưu), nắm chức Chủ tịch SLORC kiêm Thủ tướng Chính phủ. Tháng 11/1997, Hội đồng Hòa bình và Phát triển Quốc gia (SPDC) được thành lập thay thế SLORC, Thống tướng Than Xuề làm Chủ tịch kiêm Thủ tướng Chính phủ. Ngày 19/10/2004, Thống tướng Than Xuề bổ nhiệm Đại tướng Xô Uyn (General Soe Win), Bí thư thứ nhất SPDC, lên làm Thủ tướng. Ngày 24/10/2007 Đại tướng Thên Sên (Gen. Thein Sein) được bổ nhiệm làm Thủ tướng thay Thủ tướng Xô Uyn (qua đời ngày 12/10/2007)
III. THỂ CHẾ CHÍNH TRỊ:
– Về hành chính: Mi-an-ma theo thể chế Liên Bang với 7 bang và 7 Khu hành chính (tương đương bang).
-Về chính trị: Cơ quan quyền lực cao nhất hiện nay là Hội đồng Hoà bình và Phát triển Quốc gia (SPDC) do Thống tướng Than Xuề làm Chủ tịch. Tại các Bang, Khu hành chính và các cấp chính quyền địa phương đều có Hội đồng Hoà bình và Phát triển địa phương.
– Đứng đầu Chính phủ Mi-an-ma là Thủ tướng Thên Sên. Chính phủ có 35 thành viên nội các; đều là tướng lĩnh quân đội.
– Quốc hội Mi-an-ma được bầu năm 1990 với 485 đại biểu. Từ 1993, Đại hội Quốc dân được triệu tập lần đầu tiên bao gồm các đại biểu trúng cử trong cuộc Tuyển cử 1990 để dự thảo Hiến pháp mới. Năm 1996, NLD tuyên bố tẩy chay Đại hội Quốc dân do chính quyền không trao quyền theo kết quả cuộc bầu cử 1990.
– Ngày 17/5/2004, Đại hội Quốc dân đã được triệu tập lần thứ hai nhằm soạn thảo Hiến pháp mới với 1088 đại biểu tham dự bao gồm các thành phần trong xã hội, các đảng phái, vv… các đảng đối lập không tham dự. Ngày 17/2/2005, Chính quyền Mi-an-ma đã triệu tập Đại hội Quốc dân giai đoạn 2 với sự tham dự của 1086 đại biểu. Đại hội đã diễn ra suôn sẻ, song thực chất vẫn không nhận được sự ủng hộ của đại diện các đảng đối lập cũng như của dư luận bên ngoài.
– Ngày 5/12/2005, Đại hội Quốc dân Mi-an-ma đã khai mạc kỳ họp Đại hội Quốc dân lần này dự kiến kéo dài 40-50 ngày. Nội dung của Đại hội lần này là: (1) Những nguyên tắc cơ bản chi tiết trong quá trình dự thảo việc chia sẻ quyền lập pháp và hành pháp; (2) Những nguyên tắc cơ bản chi tiết về vai trò của các lực lượng vũ trang.
– Đại hội Quốc dân mở lại vào ngày 18/7/2007, kết thúc vào tháng 9/2007. Phiên họp xác định những chi tiết cuối cùng của bản hiến pháp, bao gồm các điều khoản về bầu cử, các đảng phái chính trị, quốc kỳ và quốc ca. Tháng 02/2008, Chính phủ Mianma thông báo sẽ tiến hành trưng cầu dân ý bản Hiến pháp mới vào ngày 10/5/2008 và cuộc bầu cử theo Hiến pháp mới sẽ được tổ chức vào năm 2010.
– Hiến pháp: Hiến pháp do tướng Ne Win lập ra vào tháng 01/1974 đã bị bãi bỏ vào tháng 9/1988. Dự thảo Hiến pháp mới được hoàn thành vào tháng 2/2008. Ngày 10/5 và 24/5, Mianma tổ chức trưng cầu dân ý Hiến pháp mới. Ngày 26/5/2008, Ủy ban Trưng cầu dân ý tuyên bố Hiến pháp mới đã được thông qua với 27 triệu 288 nghìn 100 người tham gia bỏ phiếu, đạt 98% trong đó có gần 93% phiếu thuận.
IV. KINH TẾ-XÃ HỘI:
– Mi-an-ma là một nước giầu tài nguyên, đất đai phì nhiêu với tổng diện tích trồng trọt khoảng 23 triệu héc ta. Nông nghiệp chiếm 40% tổng giá trị xuất khẩu. Nền công nghiệp còn yếu kém (9%). Từ năm 1988, Mi-an-ma tiến hành cải cách nền kinh tế từ hành chính bao cấp sang nền kinh tế thị trường, ban hành luật đầu tư nước ngoài, cho phép thành lập lại các doanh nghiệp tư nhân. Trong cải cách kinh tế, Mi-an-ma đã thu được một số kết quả nhất định. Tăng trưởng GDP từ 1989 đến 1996 lần lượt được cải thiện. Trong kế hoạch 5 năm (1996-2001), GDP của Mi-an-ma phát triển trung bình 6%/năm. Chính phủ đưa ra kế hoạch phát triển kinh tế 10 năm từ 2001-2011 với mức tăng trưởng GDP trung bình là 7,2%/năm.
– Do tình hình chính trị bất ổn, lại bị phương Tây cấm vận từ năm 1990 nên nền kinh tế Mi-an-ma vẫn còn rất khó khăn. Tăng trưởng kinh tế năm 2004-2005 đạt 4%. Đầu tư nước ngoài vào Mi-an-ma còn rất hạn chế: Kim ngạch thương mại hai chiều Mi-an-ma-Trung Quốc đạt 2,6 tỷ USD trong năm 2008, tăng 26,4 %. Trung Quốc đầu tư vào Mianma 1,33 tỷ USD. Kinh tế năm 2006-2007 đạt 7,5% (theo số liệu IMF), cao hơn năm trước 5,5%. Tính đến cuối tháng 4/2009, Mianma xuất khẩu hàng hóa ước đạt 1.761,8 triệu USD, giảm 11,3%; nhập khẩu hàng hóa ước đạt 1.716,2 triệu USD, tăng 63,9% so với cùng kỳ năm ngoái. Tính đến cuối tháng 4/2009, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của Mianma tăng khoảng 8,5% so với cuối tháng 4/2008, xong giảm khoảng 4,0% (-4,0) so với tháng 12/2008.
V. CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI:
– Chính sách đối ngoại của Mi-an-ma là quan hệ hữu nghị với tất cả các nước trên thế giới đặc biệt với các nước láng giềng, khu vực trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không xâm lược nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi. Mi-an-ma là thành viên của Tổ chức ASEAN, Phong trào Không Liên kết và Liên Hợp quốc.
– Từ khi Mi-an-ma được kết nạp vào ASEAN (tháng 7/1997), quan hệ Mi-an-ma với các nước ASEAN ngày càng được tăng cường và cải thiện. Mi-an-ma tích cực tham gia các hoạt động của ASEAN, kiên trì bảo vệ nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ và đồng thuận của ASEAN để bảo vệ lợi ích của mình.
Hiện nay, Mỹ và EU điều chỉnh chính sách với Mi-an-ma theo hướng mềm mỏng hơn, triển khai cả hai biện pháp là trừng phạt và tiếp cận nhằm đạt được cùng mục tiêu; Mỹ sẽ từng bước dỡ bỏ cấm vận và cải thiện quan hệ nếu Mi-an-ma đáp ứng yêu cầu của Mỹ, có những tiến bộ thực chất.
Tuy bị sức ép mạnh của chính quyền Mỹ và các nước phương Tây, nhưng quan hệ của Mi-an-ma với các tổ chức phi chính phủ hoặc có tính nhân dân của các nước phương Tây, kể cả Mỹ, Anh vẫn được duy trì. Các NGO vẫn tiếp tục giúp đỡ Mi-an-ma các dự án xây dựng trường học, giúp đào tạo y tế, dân sinh…
VI. QUAN HỆ VIỆT NAM – MI-AN-MA:
– Mi-an-ma là nước mà Việt Nam có quan hệ rất sớm. Năm 1947, ta đặt cơ quan thường trú tại Yangon. Chính quyền và các đoàn thể Mi-an-ma tích cực ủng hộ nhân dân ta trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp giành độc lập, trong cuộc đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc hiện nay của nhân dân ta trong lúc bạn còn nhiều khó khăn.
– Tháng 11/1954, Thủ tướng U Nu sang thăm nước ta. Tháng 2/1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm Mi-an-ma. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của ta, Chính phủ Mi-an-ma đã tuyên bố phản đối Mỹ ném bom miền Bắc và rải chất độc hoá học ở miền Nam.
– Sau khi ta giành được thắng lợi hoàn toàn giải phóng miền Nam Việt Nam thống nhất đất nước, hai nước đã nâng quan hệ Tổng Lãnh sự lên quan hệ ngoại giao cấp Đại sứ (28/5/1975).
– Trong những năm qua, hai nước đã tích cực củng cố và thúc đẩy quan hệ hữu nghị truyền thống và hợp tác nhiều mặt với nhau, nhất là về chính trị. Nhiều chuyến thăm cấp cao lẫn nhau đã được tiến hành như lãnh đạo cấp cao đi thăm Mi-an-ma có Thủ tướng Võ Văn Kiệt (5/1994), Tổng Bí thư Đỗ Mười (5/1997), Thủ tướng Phan Văn Khải (5/2000), Chủ tịch nước Trần Đức Lương (5/2002) Nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt (8/2004) và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng (8/2007). Lãnh đạo cấp cao Mianma thăm Việt Nam có Chủ tịch SPDC Than Suề đã thăm chính thức Việt Nam tháng 3/1995 và 3/2003, Thủ tướng Khin Nhun (8/2004), Thủ tướng Xô Uyn (4/2005) và Thủ tướng Thên Sên (11/2007), Tổng Tham mưu trưởng các lực lượng vũ trang Mianma thăm chính thức Việt Nam (10/2009). Ngày 28/5/2005, hai bên cũng đã trọng thể kỷ niệm 30 năm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao (28/5/1975-28/5/2005). Hai bên đã lập UBHH về hợp tác kinh tế và Ủy ban đã họp được 6 kỳ và đã tiến hành 5 cuộc họp tham khảo Chính trị thường niên giữa hai Bộ Ngoại giao vào tháng 8/2005 tại Yangon, tháng 8/2006 tại Hà Nội, tháng 12/2007 tại Nay Pyi Taw, tháng 8/2008 tại Hà Nội và tháng 7/2009 tại Nay Pyi Taw.
– Quan hệ kinh tế-thương mại có những bước phát triển tích cực. Năm 2007 kim ngạch thương mại hai nước đạt 97,2 triệu USD, tăng 19,9% so với năm 2006, trong đó ta xuất 21,8 triệu USD (tăng 32,1%) nhập 75,4 triệu USD (tăng 16,7%). Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2008 đạt 108,2 triệu đô la Mỹ, tăng 11% so với năm 2007. Tuy nhiên, khủng hoảng tài chính-kinh tế toàn cầu cũng phần nào ảnh hưởng đến quan hệ kinh tế-thương mại hai nước. Tổng kim ngạch thương mại hai chiều 9 tháng đầu năm 2009 đạt 56 triệu USD, giảm 21,4% so với cùng kỳ năm 2008 (xuất 16 triệu; nhập 40 triệu).
– Hai nước đã tiến hành 6 kỳ họp UBHH Việt Nam-Mi-an-ma (lần gần đây nhất là tháng 6/2008). Tại kỳ họp này, hai bên đã bàn nhiều biện pháp cụ thể nhằm thúc đẩy hợp tác về nông-lâm nghiệp, thủy sản, giao thông-vận tải, năng lượng, thông tin, y tế, văn hóa, giáo dục, thể thao, du lịch và khoa học công nghệ. Hai bên cũng đã thành lập Ủy ban thương mại chung để thúc đẩy thương mại song phương, tổ chức Hội chợ thương mại hàng năm để giới thiệu sản phẩm và thu hút các doanh nghiệp đầu tư.
– Ngoài các quan hệ hợp tác song phương, ta và Mi-an-ma còn cùng tham gia quan hệ hợp tác trong ASEAN, một số tổ chức khu vực như Tiểu vùng Mê kông (GMS); Chiến lược phát triển kinh tế 3 dòng sông (ACMECS), từ 3-5/5/2007 Hội nghị Bộ trưởng ACMECS đã được tổ chức tại Madalay-Mi-an-ma; Hợp tác Việt Nam-Campuchia-Lào-Mi-an-ma (CLMV)….Thủ tướng Thein Sein tham dự Hội nghị Cấp cao ACMECS 3 và CLMV 4 tại Hà Nội từ 5-7/11/2008. Hai nước có quan điểm gần gũi, thường xuyên phối hợp và ủng hộ nhau trên các diễn đàn quốc tế và khu vực.
Các Hiệp định, thỏa thuận về kinh tế đã ký kết:
– Hiệp định Thành lập UBHH về Hợp tác song phương giữa hai nước (5/1994)
– Hiệp định Thương mại (5/1994)
– Hiệp định Hợp tác Du lịch (5/1994)
– Hiệp định Tránh đánh thuế hai lần (5/2000)
– Hiệp định Khuyến khích và Bảo hộ đầu tư (5/2000)
– Hiệp định hợp tác Văn hóa (5/2000)
– MOU về Chương trình Hợp tác 6 năm (1994-2000) giữa hai Bộ Nông nghiệp (8/1994)
– MOU về Hợp tác Phòng chống ma túy (3/1995)
– MOU về Hợp tác trong lĩnh vực Lâm nghiệp (3/1995)
– MOU về Hợp tác giữa UBDT và Miền núi Việt Nam và Bộ Biên giới, Dân tộc và Phát triển Mianma (7/2000)
– MOU thành lập Ủy ban Hợp tác chung về Thương mại (5/2002)
– MOU về Hợp tác giữa hai Phòng Thương mại và Công nghiệp (5/2002)
Tháng 12 năm 2009